ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận được hình thành trong mối liên hệ với thực tiễn. Do vậy, giữa thực tiễn và lý luận có quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau; trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định lý luận và lý luận có sự tác động to lớn trở lại thực tiễn. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, một mặt, phải tránh tuyệt đối hoá thực tiễn, hạ thấp lý luận; mặt khác, đồng thời với coi trọng lý luận phải coi trọng thực tiễn, không được cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[1]
NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN; VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC NÀY ĐỐI VỚI VIỆC NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM VÀ BỆNH GIÁO ĐIỀU
Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Để tìm làm rõ nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tước hết cần định nghĩa thực tiễn và lý luận:
Định nghĩa thực tiễn
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính lịch sử – xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Bản chất của thực tiễn là hoạt động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Hoạt động thực tiễn diễn ra rất đa dạng song có thể chia làm ba loại:
– Hoạt động sản xuất vật chất
– Hoạt động chính trị – xã hội
– Hoạt động thực nghiệm khoa học
Trong ba loại trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quyết định đối với các loại hoạt động thực tiễn. Còn hoạt động chính trị – xã hội là hình thức cao nhất của thực tiễn. Hoạt động thực nghiệm khoa học là loại hình đặc biệt nhằm thu thập kiến thức từ tự nhiên và xã hội.
Định nghĩa lý luận
Lý luận là một hệ thống những tri thức về tự nhiên và xã hội được khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất yếu, những tính quy luật của thế giới khách quan được biểu đạt bằng hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[2].
Như vậy, lý luận là sản phẩm cao cấp của nhận thức, là tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực khách quan. Nhưng do là sản phẩm của nhận thức, nên lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn (quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận)
Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn (Vai trò của thực tiễn đối với lý luận và quán triệt quan điểm thực tiễn)
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn, mà ở trong mối liên hệ với thực tiễn. Do vậy, giữa thực tiễn và lý luận có quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau; trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định lý luận và lý luận có sự tác động to lớn trở lại thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn được hiểu trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích chủ yếu và trực tiếp của lý luận, là tiêu chuẩn của chân lý
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
Trong lịch sử, con người bắt đầu sự tồn tại của mình bằng lao động sản xuất biến đổi giới tự nhiên. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới buộc con người phải nhận thức thế giới, do đó mà nhận thức, lý luận, khoa học ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người trực tiếp tác động vào sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những bí ẩn, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng. Điều đó có nghĩa là thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận, cho khoa học. Tri thức của con người thu nhận được dưới dạng trực tiếp hoặc dưới dạng gián tiếp, từ thế hệ này truyền cho thế hệ khác đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Nhận thức là do thực tiễn sinh ra*, ngay từ đầu đã do thực tiễn quy định và phát triển trên cơ sở của thực tiễn.
Do đó, không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận và không có khoa học. Xa rời thực tiễn, nhận thức chỉ đưa lại những “đoá hoa không kết quả”. Hiểu biết của con người xét đến cùng phải bắt nguồn từ thực tiễn.
V.I.Lênin viết rằng: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung. Muốn tập bơi phải nhảy xuống nước”[3].
Thực tiễn còn là người thầy, là trường đời, là trang sách cuộc đời để ngỏ cho những ai muốn trưởng thành, khôn lớn.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
Quá trình biến đổi thế giới là quá trình con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn không ngừng biến đổi, phát triển và luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, của lý luận, cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết, khái quát kinh nghiệm mới thành lý luận mới. Trên cơ sở đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học, nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh.
Thực tiễn đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được rất nhiều thành tựu nhưng cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần tổng kết để bổ sung lý luận về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ : ‘‘Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận,’’[4]. Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức, lý luận, khoa học phát triển.
Hơn bao giờ hết, thực tiễn phát triển của thời đại chúng ta hôm nay xác nhận tính đúng đắn ý kiến Ph.Ăngghen nói rằng, “Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên nhiều hơn một chục trường đại học”[5].
Thực tiễn còn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp con người nhận thức hiệu quả hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cũng cải biến luôn chính bản thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen đã viết: ‘‘…chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên’’[6].
Thực tiễn còn là động lực chế tạo ra những dụng cụ, phương tiện, máy móc như kính thiên văn, máy ghi âm, máy tính… để hỗ trợ con người nhận nhận thức hiệu quả hơn và khái quát lý luận đúng đắn hơn. Chính nhu cầu chế tạo, cải tiến công cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy, lý luận và bản thân thực tiễn phát triển.
Vì vậy, quan hệ giữa thực tiễn và khoa học được ví như quan hệ giữa ca nô và xà lan:
Sơ đồ trên cho thấy: Ở thế kỷ XIX, thực tiễn (Ca nô) đi trước khoa học (Xà lan), thì thực tiễn (Ca nô) kéo khoa học (Xà lan) đi theo. Sang thế kỷ XX, thực tiễn (Ca nô) đi sau khoa học (Xà lan), thì thực tiễn (Ca nô) đẩy khoa học (Xà lan) đi trước. Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng: thực tiễn (Ca nô) có thể đi trước hoặc đi sau khoa học (Xà lan), nhưng thực tiễn (Ca nô) luôn giữ vai trò là động lực, vì phải có động lực thì mới kéo hoặc đẩy khoa học (Xà lan) được.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
Từ hoạt động thực tiễn mà có tri thức lý luận và tri thức khoa học; song, bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân; nghĩa là, không có nhận thức vị nhận thức, không có lý luận vị lý luận; mà lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người; nghĩa là, chỉ có nhận thức vị thực tiễn, chỉ có lý luận vị thực tiễn. Cho nên, sau khi ta đời, nhận thức, lý luận, khoa học phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn sản xuất vật chất, cải tạo chính trị – xã hội, vào thực nghiệm khoa học phục vụ con người, phải biến thành hành động cách mạng của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội, phục vụ mục tiêu phát triển con người.
Nói khác đi, thước đo đánh giá giá trị của nhận thức, lý luận, khoa học chính là thực tiễn. Nếu nhận thức, lý luận không vì thực tiễn, không nhằm phục vụ, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn mà vì chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức thì nhất định sẽ mất phương hướng, phải trả giá.
Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, là tiêu chuẩn của chân lý
Thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực và mục đích của lý luận, là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, mà còn là tiêu chuẩn của chân lý.
Chân lý là tri thức có nội dung phù hợp với thế giới khách quan mà nó phản ánh.
Nói gọn lại chân lý là sự thật. Đã là sự thật thì không sớm thì muộn cũng sẽ được biểu hiện ra, cho nên không được phủ nhận sự thật, không được che giấu sự thật, không được né tránh sự thật, không được trang trí sự thật, …
Theo triết học Mác – Lênin, chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số đông. Chân lý cũng không phải cái gì đó hiển nhiên. Chân lý cũng không phải chỉ là cái có ích, có lợi.
Triết học Mác – Lênin khẳng định và chứng minh rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra nhận thức, lý luận, khoa học. Nghĩa là, sau khi có tri thức lý luận, tri thức khoa học; vấn đề không phải là bàn cãi, tranh luận suông xem tri thức nào đúng, sai, mà chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm (tức là đem áp dụng lý luận, khoa học vào thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, con người mới vật chất hoá được tri thức, hiện thực hoá được tư tưởng) mới xác nhận tri thức đạt được là chân thực hay giả dối. Thực tiễn là tiêu chuẩn đanh thép chứng minh chân lý, nghiêm khắc bác bỏ sai lầm.
Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể khẳng định hay bác bỏ tính chân lý của lý luận. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, thực tiễn không phải là bất biến, đứng nguyên một chỗ mà luôn vận động, biến đổi, phát triển. Thực tiễn là một quá trình, cho nên nhận thức chân lý cũng là một quá trình. Điều đó đòi hỏi nhận thức của con người cũng phải đổi mới và phát triển cho phù hợp với thực tiễn mới. Nhận thức ngày hôm qua là phù hợp, là chân lý; song, nếu đem áp dụng nhận thức, lý luận cũ vào thực tiễn đã thay đổi (thực tiễn mới) sẽ làm cho nhận thức, lý luận trở nên bảo thủ, sai lầm.
Quán triệt quan điểm thực tiễn
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận, khoa học; chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Quán triệt quan điểm thực tiễn với yêu cầu khi đề ra chủ trương, đường lối phải gắn với thực tiễn, sát thực tiễn; phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, chủ trương, đường lối chính sách; phải tăng cường tổng kết thực tiễn để kiểm tra lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp thực tiễn mới. Phải thấm nhuần lời căn dặn của V.I.Lênin: ‘‘Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức’’[7]. Tại Đại hội XII, nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, một trong năm bài học được Đảng ta nêu ra là: “Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”[8].
Người hoạch định đường lối phải nắm chắc thực tế[9] – “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật…”[10], phản ánh trung thực tình hình mới đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp đúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc suy nghĩ … để thiết thực điều tra, …. rút kinh nghiệm”[11].
Thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học, nếu không sẽ là thực tiễn mù quáng, mò mẫm (Vai trò của lý luận đối với thực tiễn và ý nghĩa phương pháp luận)
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Triết học Mác – Lênin chỉ ra rằng, coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận, mà phải thấy được vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Tuy xuất hiện trên cơ sở thực tiễn; song, lý luận không thụ động chịu sự quy định thực tiễn, mà nó có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại thực tiễn.
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn:
Lý luận khái quát những kinh nghiệm thực tiễn; do đó, lý luận khoa học soi đường dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác. Do vậy, V.I.Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng… Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong.”[12] Lý luận khoa học là kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng:
Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần chúng trong cuộc sống và trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, khi lý luận khoa học thâm nhập được vào đông đảo quần chúng sẽ tạo thành sức mạnh vật chất vĩ đại. Trên cơ sở đó tạo thành khối thống nhất giữa lý luận và quần chúng để cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người. C.Mác viết: “Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[13]. Lý luận càng được phổ biến rộng rãi bao nhiêu, sẽ tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn bấy nhiêu. Chính vì vậy, mọi lực lượng xã hội đều tìm cách phổ biến lý luận của mình. Nếu lý luận cách mạng được truyền bá rộng rãi thì nó sẽ tạo nên những phong trào cách mạng rộng khắp; ngược lại, nếu lý luận phản động được truyền bá rộng rãi và không được ngăn chặn kịp thời thì nó sẽ tạo nên sức cản trở lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc hoặc của cả nhân loại.
Phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động sở dĩ được phát triển trên toàn thế giới là vì chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá ở mọi quốc gia, dân tộc. Lý luận ấy đã đem lại ánh sáng, niềm tin, niềm hy vọng lớn lao cho quần chúng lao khổ và tiến bộ trên toàn thế giới.
Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự vật, của thực tiễn sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn; giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[14].
Thứ tư,lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học đó, con người có thể thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân phục cho mục đích của mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn; do vậy, nó có thể thông qua hoạt động thực tiễn tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn. Lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, thâm nhập được vào đông đảo quần chúng nhân dân và được con người vận dụng nó một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp điều kiện thực tiễn, lịch sử – cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, kinh nghiệm v.v.. sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn.
Mức độ, hiệu quả tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của lý luận; mức độ thâm nhập của lý luận vào quảng đại quần chúng nhân dân; vào sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn lý luận hay không bởi chủ thể hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ vai trò của lý luận đối với thực tiễn trên đây, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là phải thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học, trên cơ sở đó, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức… không ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho bản thân. Phải thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi”. Tuy nhiên, khi học tập lý luận không được tuyệt đối hóa lý luận; học tập lý luận thì phải liên hệ với thực tiễn đất nước và thời đại. Phải thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch “Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế”[15].
Từ tất cả những điều đã phân tích trên có thể rút ra yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin là:
Thứ nhất, mọi lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải phục vụ thực tiễn, được kiểm nghiệm trong thực tiễn, được bổ sung, phát triển qua thực tiễn.
Thứ hai, mọi thực tiễn phải được soi sáng bởi lý luận, phải được lý luận dẫn đường.
Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Do vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mà dẫn đến hai sai lầm cực đoan, đó là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đây là hai căn bệnh tư tưởng mà cán bộ, đảng viên chúng ta ít nhiều đã mắc phải trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã gây những tác hại nhất định. Vì vậy, các Đại hội của Đảng ta đều đề ra nhiệm vụ là xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Bản chất của bệnh kinh nghiệm
Đó là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hoá kinh nghiệm thực tiễn, hoàn toàn thoả mãn với kinh nghiệm bản thân, chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là tất cả, hạ thấp lý luận, ít am hiểu lý luận, coi thường lý luận khoa học, ngại học lý luận, lười học lý luận, không chịu vươn lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận. Sự yếu kém về lý luận không chỉ dẫn đến bệnh kinh nghiệm, mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Bởi vì, chính sự yếu kém về lý luận sẽ dẫn tới sự tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi, đến chốn.
Có nhiều nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở nước ta:
Chẳng hạn như ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ, lúa nước, theo mùa, theo chu kỳ; ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong kiến; ảnh hưởng của kinh nghiệm chiến tranh du kích quá lâu dài, v.v.. Nhưng nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, không hiểu quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn của cán bộ, đảng viên.
Bệnh kinh nghiệm đã gây ra hậu quả
Dễ dẫn đến tư duy áng chừng, đại khái, thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ trong công tác; dễ rơi vào sự vụ trong công tác, thiển cận, tự mãn, thiếu nhìn xa trông rộng; dễ dẫn đến coi thường chất xám, coi thường giới trý thức, coi thường đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật; dễ nặng về quá khứ, rơi vào khuynh hướng thủ cựu, phục cổ, bảo thủ trì trệ, không chịu đổi mới, không chịu làm cách mạng; dễ rơi vào khuynh hướng đánh giá cán bộ nặng về quá khứ, quá trình, lấy quá khứ, quá trình làm tiêu chuẩn để đề bạt cán bộ. Đó là những tác hại của bệnh kinh nghiệm. Về tác hại của căn bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”[16].
Bản chất của bệnh giáo điều
Đó là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý luận, tuyệt đối hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di, bất dịch, tách rời lý luận khái thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể.
Có hai biểu hiện của bệnh giáo điều, đó là giáo điều lý luận và giáo điều về kinh nghiệm hay giáo điều về hành động
Một là, giáo điều lý luận
Đó là bệnh sách vở trong nghiên cứu, học tập lý luận, nắm lý luận chỉ dừng lại ở câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”, hiểu lý luận một cách trừu tượng mà không thâu tóm được bản chất cách mạng và khoa học của nó, nặng về diễn giải những gì đã có trong sách. Thực chất của giáo điều lý luận là đọc sách nhưng không hiểu sách, không gắn sách với cuộc sống, không gắn lý luận với thực tiễn. Khi đề ra chủ trương và chính sách, người mắc bệnh giáo điều thường nặng về xuất phát từ sách vở mà không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, xa rời thực tiễn sinh động.
Chống bệnh giáo điều lý luận thực chất là phê phán bệnh sách vở. Song, phê phán bệnh sách vở không có nghĩa là không đọc sách, bởi vì không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trái lại, phải đọc nhiều sách để có tri thức, nhưng phải “tiêu hoá” được tri thức, phải đối chiếu sách vở với cuộc sống.
Hai là, giáo điều về kinh nghiệm hay giáo điều về hành động
Đó là áp dụng một cách rập khuôn, máy móc kinh nghiệm của nước khác vào nước ta, của địa phương khác vào địa phương mình, của ngành khác vào ngành mình, của đơn vị khác vào đơn vị mình; là áp dụng rập khuôn kinh nghiệm tiến hành chiến tranh cách mạng trong thời chiến vào quá trình xây dựng kinh tế trong thời bình.
Có nhiều nguyên nhân của bệnh giáo điều ở nước ta:
.Như ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế tập trung, bao cấp quá lâu; ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản, như bệnh thành tích, bệnh hình thức, v.v.. Đặc biệt là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và không hiểu quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn ở một số cán bộ, đảng viên. Đây là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất của căn bệnh giáo điều ở nước ta.
Phương hướng chung để khắc phục hai căn bệnh này
Phải coi trọng cả lý luận, cả thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn; phải đổi mới tư duy lý luận, đổi mới lý luận của Đảng; đồng thời phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để khắc phục sự yếu kém về lý luận, trước hết phải coi trọng lý luận và công tác lý luận, phải đổi mới công tác lý luận của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phải quán triệt nhiệm vụ và phương hướng nghiên cứu chủ yếu, cũng như những phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận đã được nêu ra trong các nghị quyết về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay của Đảng.
Để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả thì phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ; khắc phục tư tưởng gia trưởng, phong kiến, như tư tưởng coi thường trí thức, tuyệt đối hóa kinh nghiệm của người cao tuổi,v.v.. . Đặc biệt phải quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn.
Để ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp tối đa khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn; phải đổi mới việc nghiên cứu lý luận, từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện; thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, gắn lý luận với thực tiễn, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế cách mạng của cả nước, địa phương, ngành, đơn vị một cách sáng tạo. Trong thời kỳ mới của cách mạng nước ta hiện nay; để ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả bệnh giáo điều cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức, v.v.. Đặc biệt là phải quán triệt tốt trên thực tế nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng đắn quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn./.
DẪN CHỨNG THỰC TẾ
Đối với ngành Công nghệ thông tin nước ta cũng như quốc tế, mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn luôn được khẳng định và chứng minh thông qua thực tiễn phát triển vượt bậc của nền công nghệ thông tin thông qua thay đổi lý luận và áp dụng các thuật toán khác nhau qua từng giai đoạn.
Đầu những năm 1990, giai đoạn đầu phát triển của internet, web phiên bản 1.0 ra đời, Đây là cụm từ có thể đọc được trên mạng của World Wide Web với dữ liệu phẳng. Trong Web 1.0, chỉ có sự tương tác hạn chế giữa các trang web và người dùng web. Web 1.0 đơn giản là một cổng thông tin nơi người dùng tiếp nhận thông tin một cách thụ động mà không có cơ hội để đăng đánh giá, nhận xét và phản hồi. Web 1.0 là thế hệ đầu tiên của Web. Một trang web tĩnh được xây dựng hoàn toàn bằng văn bản và các trang web được liên kết với nhau bởi các siêu liên kết và được sử dụng làm cổng thông tin. Nó cũng được gọi là web chỉ đọc. Không có trao đổi trực tiếp liên lạc giữa người đọc và nhà xuất bản thông tin. Các dịch vụ thư mục cũ, như Altavista, Yahoo! Cổng thông tin Web là một ví dụ về Web 1.0, cũng như một số công cụ phát triển Web cơ bản (ví dụ: trình soạn thảo HTML) Mosaic (trình duyệt web).
Năm 2004, khái niệm Web 2.0 ra đời, cũng được gọi là Web Social Web, là thuật ngữ được đưa ra để thể hiện một thế hệ thứ hai của World Wide Web. Web 2.0 chủ yếu nhấn mạnh khả năng mọi người có thể chứa và chia sẻ thông tin trực tuyến tham gia và phản hồi nội dung thay vì chỉ tiêu thụ nội dung đó.
Năm 2006, một khái niệm mới về web 3.0 được đưa ra, nó kế thừa đầy đủ các nguyên lý của web 2.0 và bổ sung thêm các thuật toán hỗ trợ tương tác và giao dịch khối (blockchain).
Đến thời điểm hiện tại, web 2.0 vẫn được dùng nhiều nhất nhưng xu hướng phát triển mạnh mẽ của web 3.0 dần chiếm lĩnh các mảng công nghệ, dịch vụ phục vụ đời sống như: đảm bảo an ninh thông tin, giao dịch đảm bảo, giao dịch ngân hàng và hướng tới một nền tảng ngân hàng số.
Sự phát triển của công nghệ thông tin thể hiện nguyên tắc thống nhất nhữ lý luận và thực tiễn nhưng cũng mắc không ít sai lầm. Ví dụ như việc suy thoái của Tập đoàn công nghệ Yahoo, có rất nhiều lý do dẫn đến quá trình suy thoái của công ty này nhưng trong đó có lý do là không xác định được hướng đi cho mình: Trong những ngày đầu mới thành lập cho đến lúc sụp đổ, Yahoo vẫn luôn bối rối xác định mình là công ty truyền thông thay vì bản chất là một tập đoàn công nghệ. Bởi trên thực tế Yahoo kiếm tiền dựa vào quảng cáo hơn là bán phần mềm như Google hay Microsoft. Nỗi sợ hãi trong những năm đầu của Yahoo là bị đánh bại bởi Microsoft nếu đi theo hướng công ty công nghệ bởi bản thân Yahoo không sở hữu nền văn hóa khởi nghiệp tương tự như đối thủ của mình. Không những thế việc luôn bị ám ảnh bởi lợi nhuận thu về lúc ban đầu, đã khiến Yahoo bỏ qua việc phát triển những công nghệ liên quan đến mình dẫn đến sự tụt hậu so với các mạng xã hội khác sau đó và dần dần sụp đổ
KẾT LUẬN
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận khoa học đối với chúng ta trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải tuân thủ yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này là:
Thứ nhất, mọi lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải phục vụ thực tiễn, được kiểm nghiệm trong thực tiễn, được bổ sung, phát triển qua thực tiễn.
Thứ hai, mọi thực tiễn phải được soi sáng bởi lý luận, phải được lý luận dẫn đường. Nếu xa rời yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này thì tất yếu sẽ mắc bệnh hoặc là bệnh kinh nghiệm hoặc là bệnh giáo điều.
Hiện nay vẫn còn đó căn bệnh giáo điều, bảo thủ, trì trệ, chủ quan, duy ý chí,… trong nhận thức và hoạt động thực tiễn ở cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội XI năm 2011, Đảng ta nêu rõ: “Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.[17]” Vì vậy, để đạt được mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thì việc ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều, bảo thủ, trì trệ, bệnh chủ quan, duy ý chí trong nhận thức và hoạt động thực tiễn là việc phải được tiến hành thường xuyên của Đảng ta.
Tài liệu tham khảo:
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr. 496.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 497.
[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tập 29, tr. 220.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 255 – 256.
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tập 39, tr. 271.
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 720.
[7] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 18, tr.167
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 69
[9] Thực tế: đúng đắn; : thích đáng = 1. Sự có thật trong cuộc sống; 2. Sát với sự thật; Không viển vông, không mơ hồ, không lãng mạn.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr. 497.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 711.
[12] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tập 6, tr. 30, 32.
[13] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr. 580.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr. 496.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tập 8, tr. 496.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 5, tr. 234.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 64.